Rất nhiều nhà đầu tư cá nhân ở Việt Nam mới đây giật mình với dự kiến tăng lô giao dịch từ 100 lên 1000 của HoSE. Lý do được đưa ra là do hệ thống hiện hành bị quá tải. Không những thế, người đại diện của HoSE còn cho biết việc điều chỉnh này còn là để bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ lẻ, qua việc nhà đầu tư cá nhân sẽ chuyển sang đầu tư chứng chỉ quỹ phát hành bởi các công ty quản lý quỹ chuyên nghiệp. Nhưng đây chỉ là một phần của bức ghép hình puzzle.
Quỹ đầu tư nào dành cho cá nhân?
Trên thị trường tài chính, tùy theo các tiêu chí mà có nhiều loại quỹ đầu tư khác nhau. Có thể liệt kê ra như quỹ ETF (Exchange Traded Fund), quỹ tương hỗ (Mutual Fund), quỹ hưu trí, quỹ đóng (Closed-End Fund), ủy thác đầu tư (Investment Trust), quỹ chuyên đầu tư trái phiếu, quỹ chuyên đầu tư cổ phiếu, quỹ chuyên đầu tư các chỉ số chứng khoán.
Sự đa dạng phong phú của các quỹ đầu tư là nhằm đáp ứng rất nhiều nhu cầu khác nhau của nhà đầu tư, cả cá nhân và tổ chức. Nhưng nói rằng đầu tư chứng chỉ quỹ là để bảo vệ lợi ích nhà đầu tư nhỏ lẻ và để giảm nghẽn lệnh cho sàn giao dịch thì chỉ cho thấy một phần của bức ghép hình puzzle.
Thứ nhất, nhiều chứng chỉ quỹ được niêm yết như cổ phiếu, nên vẫn phải giao dịch theo lô. Những quỹ có danh mục toàn là các cổ phiếu bluechip thì mức giá cũng thường sẽ cao, lấy ví dụ như quỹ ETF của Vanguard chuyên về cổ phiếu công nghệ hiện có giá xoay quanh 350-370 USD. Ngoài ra, nhiều quỹ còn có quy định mức đầu tư tối thiểu nên không thể tiếp cận được với tất cả các nhà đầu tư cá nhân, có những quỹ không quy định mức tối thiểu nhưng nhiều quỹ quy định mức tối thiểu là 500 USD, 5000 USD hoặc thậm chí hàng chục ngàn USD.
Thứ hai, chứng chỉ quỹ cũng là một loại chứng khoán nên dĩ nhiên cũng ẩn chứa rủi ro. Và mức độ rủi ro không chỉ phụ thuộc vào các yêu tố chung của thị trường, mà còn là ở doanh nghiệp quản lý quỹ. Chính vì vậy, các quỹ đầu tư đều có các chỉ số đo lường rủi ro, hiệu quả như tất cả các loại chứng khoán khác, từ Alpha, Beta, Max Drawdown, R2, VaR đến Sharpe ratio, Information ratio v.v..
Ngoài ra khác với cổ phiếu hay các loại chứng khoán khác, đầu tư vào quỹ thì nhà đầu tư phải mất thêm chi phí quản lý quỹ, và cái này có khi là ma trận đối với nhiều nhà đầu tư cá nhân. Nhiều quỹ đầu tư không minh bạch vấn đề này, không công bố công khai tổng chi phí ròng (Total Net Expenses) cho nhà đầu tư nhỏ lẻ được biết.
Thứ ba, lợi nhuận hay hiệu quả của đầu tư vào quỹ hoàn toàn nằm ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu tư khi giao quyền quyết định cho người quản lý quỹ. Do đó, nhà đầu tư cá nhân cần theo dõi hiệu quả của quỹ đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 3 hay 5 năm, thông qua các chỉ báo rủi ro, hiệu quả, hay các chỉ số hiệu quả đã có điều chỉnh rủi ro.
Triển vọng nào cho quỹ đầu tư ở Việt Nam?
Theo số liệu từ Eikon (Thomson Reuteurs), hiện có 47 quỹ niêm yết ở Việt Nam, số lượng quỹ có trên 5 năm tuổi là 19, trên 3 tuổi là 29 và trên 1 tuổi là 41. Số lượng quỹ như vậy so với tổng số cổ phiếu niêm yết chỉ vào khoảng 7%. Tuy vậy, hiệu quả đầu tư của các quỹ có sự chênh lệch đáng kể. Nếu tính khung thời gian 3 năm trở lại đây, tỷ suất sinh lời của các quỹ niêm yết ở Việt nam là 4,5%/năm, có quỹ tỷ suất sinh lời âm nhưng có quỹ đạt mức cao nhất là 9%/năm. Đối với những quỹ có thâm niên trên 5 năm, tỷ suất sinh lợi trung bình của 5 năm gần đây là 12%/năm, đặc biệt có quỹ đạt mức trung bình 17,5%/năm.
Điều này cho thấy việc đầu tư vào các quỹ cũng ẩn chứa nhiều mức độ rủi ro khác nhau. Thêm vào đó, lợi nhuận ròng của nhà đầu tư vào quỹ phải cấn trừ các chi phí thực tế đã phát sinh. Đây cũng là lí do ở nhiều thị trường các quỹ đầu tư không chỉ cạnh tranh với nhau về hiệu quả sinh lời gộp, mà còn cạnh tranh với nhau ở tổng chi phí ròng, mức đầu tư tối thiểu, sự linh động trong việc quản lý, chuyển đổi, thanh lý quỹ.
Ở nhiều thị trường phát triển, phần lớn vốn hóa của thị trường là nắm giữ bởi người dân. Bởi vì, bên cạnh việc đầu tư trực tiếp vào cổ phiếu, người dân còn đầu tư vào các quỹ tương hỗ, các quỹ ETF, và các quỹ hưu trí. Các quỹ này, một cách gián tiếp lại đầu tư thay người dân vào thị trường chứng khoán.
Như vậy, để phát triển ngành quỹ đầu tư chuyên nghiệp, không thể uốn nắn nhà đầu tư cá nhân từ cổ phiếu sang chứng chỉ quỹ vì họ biết tính toán chi phí cơ hội của mình, chưa kể là có rất nhiều quỹ đầu tư không cần niêm yết. Thực tế ở các thị trường phát triển, quỹ đầu tư chuyên nghiệp phát triển được là sự đồng bộ của nhiều chính sách khác nhau.
Quan trọng nhất là phải kể đến chính sách thuế thu nhập cá nhân. Rất nhiều nước có chương trình hưu trí bổ sung, dạng DC (Defined Contribution), người lao động đóng một phần vào quỹ hưu trí tự nguyện và bên sử dụng lao động bổ sung phần còn lại. Phần đóng của người lao động được khấu trừ vào thu nhập cơ sở để tính thuế thu nhập cá nhân, có ấn định mức tối đa được giảm trừ.
Cũng liên quan đến thuế thu nhập cá nhân thì có những quỹ bảo hiểm nhân thọ, khi người dân đầu tư vào các chứng chỉ quỹ được công nhận, nếu giữ sau một số năm nhất định (như ở Pháp là từ sau 4 năm, và sẽ là có lợi nhất nếu sau 8 năm) thì phần lãi từ hợp đồng sẽ được áp dụng thuế suất ưu đãi.
Tiếp đến là sự minh bạch, hiệu quả của thị trường, và các quy định bảo vê nhà đầu tư cá nhân chặt chẽ. Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Journal of Financial Economics, một tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế tài chính, của Cumming, Johan và Li năm 2011 với dữ liệu của 42 thị trường chứng khoán đã cho thấy các quy định chặt chẽ của luật chứng khoán sẽ làm tăng sự tin tưởng của nhà đầu tư cá nhân, khi kiểm soát và hạn chế các vấn nạn như thao túng thị trường (manipulation), giao dịch nội gián (insider trading), và vấn đề xung đột lợi ích người đại diện trung gian (broker-agency). Luật Dodd-Frank của Mỹ và quy định MiFID của EU là những minh chứng cho việc quản lý giám sát thị trường tốt sẽ thúc đẩy thị trường phát triển.
Như vậy, việc nâng lô giao dịch từ 100 lên 1000 thực sự không phải là bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nhỏ lẻ khi có chủ ý uốn nắn họ từ đầu tư cổ phiếu sang đầu tư chứng chỉ quỹ. Thêm vào đó, ngành quỹ đầu tư chuyên nghiệp chỉ có thể phát triển khi có các chính sách phù hợp về thuế thu nhập cá nhân, luật chứng khoán và các quy định pháp luật thực sự bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư cá nhân, vì một thị trường chứng khoán minh bạch và hiệu quả.